Anh tiếp tục ghi điểm khi vào vai dẫn chương trình giao lưu văn nghệ khá ngọt. Bằng chất giọng truyền cảm, với lối dẫn dắt hóm hỉnh, linh hoạt, thông minh, anh đã khiến đêm đốt lửa hội trại thật sự sôi động và ấn tượng. Giữa muôn hồng ngàn tía, bộ quân phục nghiêm ngắn, chỉnh tề của anh bỗng có sức hút đến kỳ lạ. Anh cuốn tôi vào một thế giới mới mẻ và lạ lẫm - thế giới mà những sinh viên khoa văn có tiếng “lóng lánh sắc màu” như chúng tôi bỗng nhiên thấy mình nhạt hoét. Có lẽ tất cả rồi sẽ qua đi nếu như sau đêm lửa trại, anh không đọc cho tôi nghe câu thơ: Đi một mình giữa đường mưa ướt/Thấy em cười xanh biếc cõi trời xa… Tôi nhìn anh ngỡ ngàng. Minh cười nhẹ:
- Thơ của Trần Hữu Nghiễm đấy, không phải của anh đâu. Nhưng nó thật đúng với tâm trạng của những người lính canh trời trên đỉnh mù sương bọn anh.
Thấy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, anh bảo:
- Gọi là đỉnh mờ sương là bởi ngọn núi cao vút này mỗi năm có tới 9 tháng sương mù che phủ. Còn em? Cho anh biết tên được không?
Tôi bẽn lẽn: Em là Vũ Thảo Nguyên - Sinh viên Khoa Văn, Trường đại học Xã hội &Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh ạ.
Chúng tôi đứng bên nhau, trao đổi thân tình giống như đôi bạn cũ vừa gặp lại. Rồi cũng đến lúc giã bạn, anh nắm nhẹ tay tôi, khẽ nói: “Rất vui được quen em, tạm biệt!” rồi quay người bước đi. Tôi bỗng có cảm giác mình vừa mất đi một điều gì quý lắm. Đứng chôn chân tại chỗ, tôi lặng lẽ nhìn theo bóng anh lẫn nhòa vào khối người trước mặt. Đột nhiên Minh trở lại, giọng lạc đi, thảng thốt:
- Hãy đưa tay cho anh!
Như vô thức, tôi chìa bàn tay bé nhỏ về phía anh. Minh cuống quýt ghi vào đó một dãy con số, đôi mắt như hai đốm lửa bập bùng:
- Điện thoại của anh đấy, nhớ nghe em!
Minh đã đi khuất tự lúc nào, tôi vẫn trân trân nhìn vào hàng chữ số đang cựa quậy giữa lòng bàn tay. Chẳng biết tôi còn ngơ ngẩn đến bao giờ nếu cái Hạnh không ào đến. Nó tinh quái hét vào mặt tôi:
- Này, phải lòng phải mề anh bộ đội ấy rồi hả? Đấy, tao đã “bẩu” mà, chạy trời không khỏi nắng. Nhìn cái mặt ngơ ngơ thế kia, đích thị “Ngọn gió hoang” của lớp mình bị “sét” đánh trúng rồi. “Dưng” mà mày đã biết gì về chàng chưa?
Minh họa: Trần Quốc Ân
Tôi thật thà chìa bàn tay có hàng chữ số còn chưa khô mực, Hạnh phá lên cười:
- Chỉ thế thôi sao? Rõ là đồ nhẹ dạ.
Nó kéo tôi đi về dãy lán trại của lớp, miệng vẫn tía lia:
- Mày phải cảm ơn con bạn tốt nhất trên đời là tao đây. Trong lúc hai người bận thiêu cháy nhau, tao đã điều tra giúp mày rồi đấy. Này nhé, Thượng úy Nguyễn Hồng Minh, 28 tuổi, chưa vợ. Chàng đến đây trong vai trò Bí thư đoàn của 1 Trạm ra đa đóng quân tít trên đỉnh núi Thánh Giá. Đừng có hỏi ngọn núi ấy ở đâu nhá! ở đâu còn lâu mới nói. Bước tiếp hay dừng lại là tùy mày, đừng có nhìn tao bằng cái vẻ mặt ngây thơ “vô số tội” ấy nữa.
Rồi để mặc tôi chìm đắm trong suy tư, nhoáng một cái Hạnh lại biến mất. Lần này nó đi rõ lâu. Khi tôi bắt đầu hết kiên nhẫn nó mới mò về. Luồn đôi tay giá lạnh vào eo tôi, Hạnh thầm thì:
- Tao đã điều tra tường tận nơi chàng Minh của mày đóng quân rồi. Nó vô cùng thú vị so với trí tưởng tượng của chúng ta. Nhưng không sao, “yêu nhau mấy núi cũng trèo”. Nếu…
Phần thì bối rối, phần thì xấu hổ, tôi gạt đi:
- Giời ạ! Đã có gì đâu nào. Ngủ thôi, nỡm ạ.
Nhưng khi Hạnh đã ngáy pho pho tôi vẫn nằm trằn trọc suy tư. Mười chữ số anh trao tôi đã thuộc lòng. Chỉ cần một cú điện thoại… Đúng rồi, nhất định ngày mai ….
Nhưng rồi ngày hôm sau tôi đã không làm gì cả. Qua một đêm, mọi cảm xúc dường như lắng dịu. Tôi vẫn nhớ anh, nhưng nỗi nhớ chỉ vừa đủ để bâng khuâng. Chúng tôi trở về ngôi trường thân thuộc, mang theo chút kỷ niệm ngọt ngào từ đêm lửa trại. Rồi mùa thi đầy bận rộn cũng cuốn tôi đi, thi thoảng nghĩ đến anh, tôi lại khẽ mỉm cười. Có thể tôi đã cất tất cả những kỷ niệm về anh vào một ngăn kí ức nếu như không có một ngày tôi bất ngờ nhận được thư anh. Minh bảo, tìm được tôi là cả cuộc hành trình, gian truân và công phu chẳng kém gì chiếc ra đa của anh quét tìm mục tiêu lạ trên bầu trời Tổ quốc.
Thư Minh viết khá dài, nét chữ cứng cỏi, phóng khoáng, lời lẽ tha thiết, chân thành. Anh ân cần hỏi thăm sức khỏe của tôi, chia sẻ cả nỗi gian nam vất vả mùa thi. Anh nhắc nhiều đến những kỷ niệm mà chúng tôi đã có với nhau. Chỉ thế thôi, trái tim tôi bỗng dưng loạn nhịp. Không thể nén lòng mình được nữa, tôi chạy ào ra khỏi ký túc xá sinh viên, đến ki ốt điện thoại, cuống quýt nhấn đủ 10 chữ số. Phút chờ đợi dài như hàng thế kỷ. Anh vừa mới kịp “A lô” tôi đã khóc òa…
Những lá thứ tiếp theo, đều đặn mỗi tuần một lá, anh kể cho tôi nghe cuộc sống của những người lính đang làm nhiệm vụ canh trời trên đỉnh núi cao. ở nơi ấy, ngẩng đầu là mây, ngoảnh mặt bốn phía là cây rừng bao bọc, “láng giềng thân thiết” với các anh chỉ có bầy khỉ dạn người. Trong một ngày, thời tiết hội tụ đủ cả bốn mùa: Sáng lạnh giá, trưa nắng nóng, chiều sương mù bao phủ và đêm lại rét run người. Nghe anh kể, trí tưởng tượng của tôi được dịp tung hoành: Từng đám mây cứ trôi lơ lửng ngay trên đầu. Có lúc hạ thấp chúng sẽ bay ngang qua mặt người. Minh cười, lên được đỉnh núi Thánh Giá là có thể ngắm nhìn toàn cảnh hòn đảo này trong tầm mắt. Nhưng trong thực tế, ngoài các anh, rất ít người đặt chân lên đó bởi dốc đứng ngút ngàn, trơn trượt, hiểm nguy, quanh năm sương giăng mờ ảo…. Không biết tự khi nào, tôi luôn mong ngóng những lá thư của anh bằng một tâm trạng rất đặc biệt. Thư qua, thư lại, đến là thư thứ 100 thì giữa chúng tôi đã không còn khoảng cách. Cả anh và cái trạm ra đa trên đỉnh núi Thánh Giá bây giờ đều vô cùng thân thuộc đối với tôi.
Nghe nói, những cặp đôi nắm tay nhau cùng ngắm mặt trời lặn trên đỉnh núi Thánh Giá sẽ được bên nhau trọn đời, tôi liền quyết định đến thăm anh vào đúng dịp nghỉ lễ cuối năm. Muốn tạo niềm vui bất ngờ cho Minh, tôi lặng lẽ ra bến xe miền Đông về Vũng Tàu. Từ cảng Cát Lở, tôi lên tàu ra Côn Đảo. Bên tai cứ vẳng vẳng lời dặn ân cần của anh trong một lá thư: “Em nhớ mua vé nằm tầng hầm dưới khoang giữa cho đỡ say, nằm nghiêng và co người lại nhé. Tàu này chở hàng ít lắc lư hơn. Nhớ chuẩn bị đồ ăn tối vì trên tàu chỉ bán trứng luộc và mì gói, những món này em ăn dễ đầy bụng lắm đấy”.
Cứ hình dung gương mặt tràn trề hạnh phúc của anh khi tôi bất ngờ xuất hiện là bao mệt mỏi tan biến hết. Sau 12 tiếng chịu đựng những cú va đập, nhồi lắc của sóng biển, sớm tinh mơ hôm sau tàu đã cập bến. Côn Đảo chuẩn bị vào Xuân nên nơi nào cũng rộn ràng hương sắc. Trạm ra đa của anh giống như một cái chấm nhỏ nhoi giữa bạt ngàn màu xanh của biển, của rừng. Con đường lên đến Trạm ra đa 32 độc đạo, chênh vênh. Cả cung đường là những con dốc dựng ngược nối tiếp nhau, rất nhiều đoạn cua gấp khúc. Mới vượt được hai phần ba quãng đường, tai tôi đã ù đi do chênh lệch áp suất. Càng lên cao, nhiệt độ càng giảm, Sương mù đặc quánh bao phủ, cách vài mét đã chẳng nhìn rõ mặt người. Tôi co người tránh những cơn gió hun hút bất tận, trong lòng trào lên cảm giác thương và yêu anh gấp bội. Xuống xe, chẳng kịp chào bác tài tôi chạy ào về phía cổng Trạm, miệng cười nhưng nước mắt cứ vòng quanh. Ngay cả khi tôi đã ở trước mặt anh, Minh vẫn chưa hết bất ngờ. Anh cứ nắm chặt tay tôi mà lay, mà lắc. Mặc kệ sự hiện diện của các đồng đội xung quanh, tôi cứ nép sát vào ngực anh, chỉ sợ buông tay là anh biến mất.
Theo sự chỉ dẫn của Minh, tôi làm quen với các thành viên trên Trạm khá nhanh. Bộ đội thật gần gũi và dễ mến, dẫu cuộc sống nơi đây thiếu thốn trăm bề. Minh vui lắm, anh dành nguyên ngày nghỉ cuối tuần đưa tôi đi tham quan khắp nơi, từ Bảo Tàng Côn Đảo, Trại tù Phú Hải, Cầu tàu 914 đến nghĩa trang Hàng Dương - nơi Anh hùng Võ Thị Sáu đang yên nghỉ. Trên độ cao 600 mét so với mặt nước biển, tôi đã có những trải nghiệm thực sự khó quên. Ngày mới trên đỉnh mù sương luôn bắt đầu với cái lạnh cắt da. Sau đó mặt trời đứng bóng, nắng nóng như thiêu đốt đến tầm 3 giờ chiều là sương giăng mù mịt. Đêm đến, quấn mình trong chiếc chăn to, có hẳn một đống lửa hỗ trợ mà tôi vẫn rét run người. Giống như một con én nhỏ, tôi lăng xăng giúp các anh những công việc lặt vặt cần đôi bàn tay khéo léo của phụ nữ. Trạm nhỏ và ấm áp như một gia đình quần tụ. Để mặc anh với chiếc xe đài, với giàn ăng ten cao vút lúc nào cũng ngạo nghễ quay tròn, tôi theo cậu lính trẻ tên Tân đi quét sân, làm bếp, thậm chí trồng hoa, tỉa cây. Tôi học bộ đội cách gấp chăn vuông như cái hộp diêm, học cách ăn, ngủ đúng giờ. Tôi đã biết thế nào là “dốc tử thần”, là thiếu nước ngọt. Nhưng đã bước sang ngày thứ ba sống trên điểm cao, tôi vẫn chưa có cơ hội thực hiện điều mình ước.
Thấy tôi ưu tư, Minh tủm tỉm đùa:
- Ngắm mặt trời lặn trên đỉnh núi Thánh Giá là một cơ duyên em ạ. Sương cứ giăng mù mịt thế này, cũng có nghĩa là em phải ở đây dài dài để chứng tỏ tình yêu của mình đấy.
Tôi còn chưa biết phản công anh bằng cách nào, Trạm trưởng Tuấn đã vui vẻ mách nước:
- Không ngắm hoàng hôn thì ngắm bình minh. Cứ cùng nhau ngắm mặt trời trên đỉnh Thánh Giá là được chứ gì?
Chính trị viên Phát lúc này mới rũ ra cười:
- Anh Tuấn vừa cho em ăn bánh vẽ đấy! Bình minh trên này phải tầm giữa trưa. Lúc ấy hai em đeo kính thiên văn vào cũng ngắm không nổi đâu. Em đã lên đến nơi này, đó chính là món quà quý giá nhất rồi. Riêng tình yêu của hai đứa, chẳng cần ngắm hoàng hôn hay bình minh thì có các anh làm chứng lại chả chắc hơn gấp nhiều lần thần núi ấy chứ.
Rõ ràng tôi không cảm thấy tủi thân mà nước mắt cứ tràn mi. Minh kéo tôi chạy thốc ra ngoài. Từ trên đỉnh núi, chúng tôi có thể ngắm nhìn toàn cảnh Thị trấn Côn Đảo tấp nập đông vui, những vạt rừng nhiệt đới xanh thẫm, những hòn đảo lớn nhỏ vây quanh giữa một vùng biển xanh bao la… Minh thì thầm: Đất nước mình đẹp quá phải không em? Hãy đợi anh, nhất định ra Giêng… Tôi không nói gì, nhưng lại tin cậy tựa hẳn vào bờ vai vững chãi của anh thay cho lời ước hẹn.
Chiều muộn, sương lạnh bắt đầu lan tỏa đỉnh mù sương. Minh đưa tôi xuống núi bằng con ngựa sắt của anh lính tiếp phẩm. Chúng tôi bịn rịn chia tay nhau. Tôi ngược về thành phố, tiếp tục chuỗi ngày phấn trắng bảng đen. Minh của tôi và bao đồng đội khác, thêm một cái Tết xa nhà làm nhiệm vụ thức canh bầu trời Tổ quốc. Đã bước lên cầu cảng, tôi vẫn ngước mắt nhìn lên đỉnh Thánh Giá, chỉ thấy cột ăng-ten ngạo nghễ vươn cao đang chìm dần trong màn sương mờ ảo.
Và tôi biết, dẫu không thấy bình minh hay hoàng hôn, mùa Xuân cũng đang đến rất gần.
QUỲNH VÂN