14 giờ:55 phút Thứ ba, ngày 15 tháng 1 , 2019

Chuyện của những phi công tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam

Về xã Đông Huy, huyện Đông Hưng, Thái Bình hỏi ai cũng biết Đại tá Nguyễn Văn Kháng, người phi công được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (AHLLVT) do có những thành tích xuất sắc trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế khi mới 30 tuổi.

 Chuyện chuyển loại trong 1 tháng

Chuyện của những phi công tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam
Các phi công Trung đoàn 935 bàn phương án chiến đấu, bảo vệ biên giới Tây Nam.
                                                                                                      Ảnh tư liệu

Chiều Đông mưa lách nhách, chúng tôi tìm về nhà Đại tá Nguyễn Văn Kháng. Biết trước nội dung mà chúng tôi trao đổi từ cuộc điện thoại, vẫn giữ tác phong nhà binh, ông không rườm rà mà vào chuyện ngay.

Theo lời kể của ông, đầu tháng 5-1975, ông là một trong những phi công đầu tiên ở đội hình tiếp quản sân bay Biên Hòa. “Lúc ấy ngổn ngang lắm, máy bay nằm la liệt ngoài đường bay, xe máy, súng đạn vứt lung tung. Tàn quân vẫn còn ẩn náu trong các khu rừng xung quanh sân bay nên phi công chúng tôi đi đâu cũng kè kè khẩu AR15 để tự vệ. Trong trường hợp đánh nhau to, phi công phải chui hết vào trong hầm, để anh em vệ binh chiến đấu bảo vệ” – Ông Khánh nhớ lại và hồi tưởng: “Vất vả nhất là tiếp thu F-5”.

Theo lời ông kể, sau ngày 30-4-1975, số máy bay tiêm kích phòng không F-5 do Mỹ sản xuất bỏ lại sân bay Biên Hòa lên đến trên 40 chiếc. Nhiệm vụ của trung đoàn 935 là vừa sử dụng Mig-21 làm nhiệm vụ trực ban sẵn sàng chiến đấu, vừa chuẩn bị khai thác sử dụng máy bay chiến lợi phẩm F-5. Ông Kháng được phân công vào Đại đội 2 sử dụng máy bay F-5. Được giao nhiệm vụ làm chủ máy bay F-5 trong thời gian ngắn nhất, các phi công quen với Mig đều ngỡ ngàng từ những chỉ dẫn cho đến tính năng, tác dụng, phương pháp điều khiển… “Không 1 ai biết tiếng Anh ngoài anh Nguyễn Thành Trung, nên chúng tôi phải nhờ hết vào các giáo viên là nhân viên kỹ thuật chế độ cũ. Ban ngày thì các anh ấy dẫn ra tìm hiểu, làm quen máy bay. Tối thì họ tập trung dạy tiếng Anh để phi công giải phóng biết các đồng hồ trong buồng lái và bập bẹ đọc tài liệu” – Ông Kháng cười.  

Không có giáo viên bay, Quân chủng phải chỉ định phi công Nguyễn Thành Trung làm “thầy dạy”. Khổ nỗi, phi công Nguyễn Thành Trung trước giờ chỉ lái máy bay F-5A chiến đấu 1 chỗ ngồi, nên phải lấy chiếc F-5B 2 chỗ ngồi chuyên huấn luyện phi công để Nguyễn Thành Trung ngồi buồng trước điều khiển, phi công Nguyễn Văn Nghĩa ngồi buồng sau quan sát xem chuyển động ra sao rồi về dạy. Ngày 27.5.1975, chuyến bay đầu tiên của “phi công giải phóng” đã thành công, mở đầu cho việc tự chuyển loại cho 36 phi công làm chủ máy bay F-5 chỉ trong vòng 1 tháng, khiến nhân viên kỹ thuật cũ kinh ngạc thốt nên “giỏi dữ vậy”.

Đến giai đoạn chuyển loại máy bay chiến đấu, phi công Nguyễn Văn Nghĩa và Nguyễn Văn Kháng ngồi trên F-5B bay cùng Mig-17 để kiểm tra, so sánh tính năng, chuyển ứng dụng bài bay từ Mig-21 sang và học tập, rút kinh nghiệm trong đơn vị. Thời điểm đưa F-5 vào trực ban chiến đấu, đúng lúc cả đơn vị bị dịch sốt xuất huyết, chỉ còn 4 phi công làm nhiệm vụ (trong đó có ông Kháng) nên ngày nào cũng trực ngoài sân bay.

Ngày xuất kích tới 3 lần

Chuyện của những phi công tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam
Máy bay F5 của Trung đoàn 935 chuẩn bị xuất kích làm nhiệm vụ chiến đấu năm 1979.
                                                                                      Ảnh tư liệu
 

Tháng 5-1978, PolPot sử dụng lực lượng lớn tấn công xâm lấn biên giới ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Trung đoàn 935 (khi đó thuộc Sư đoàn 372) được giao nhiệm vụ tham gia chiến đấu trên các hướng, trực tiếp chi viện hỏa lực cho 4 quân đoàn (3,4,7,9). Ngày 6-5-1978, Trung đoàn 935 xuất kích 8 lần chiếc F-5E phối hợp với lực lượng của Trung đoàn 937, 917 đánh địch. Trong trận đầu này, Thượng úy Nguyễn Văn Kháng bay trong đội hình biên đội 1 cùng phi công Dương Đình Nghi. Biên đội 2 gồm 2 chiếc F-5 do các phi công Nguyễn Thanh Xuân và Hoàng Hữu Hiền điều khiển.

Nhớ lại trận đầu này, ông Kháng cho biết: “Rất lo lắng và hồi hộp vì lần đầu tiên mang những 2 tấn bom đi ném. Cái nút ấn bom ngay cần lái, sơ ý chạm vào là dễ ném vào đồng đội mình. Sợ nữa là không tìm thấy mục tiêu vì đây là lần đầu tiên Không quân làm nhiệm vụ đánh bom theo lệnh gọi (trinh sát mặt trận chỉ mục tiêu, mình kẻ trên bản đồ, bay tìm mục tiêu) trên địa bàn rộng lớn. Mình bay cao vậy mà vẫn thấy súng phòng không nó bắn dày đặc dưới bụng. Thả xong bom, nghe trinh sát báo đã trúng mục tiêu, mới thở phào nhẹ nhõm”; ông tươi cười: “Lúc ấy có nhiệt huyết của tuổi trẻ, có ngày xuất kích đến 3 lần và buổi trưa không ăn được gì vì quá mệt mỏi”.

Ông bảo: “Từ tháng 5-1978 đến tháng 1-1979, tôi đã tham gia đánh 45 trận, cùng biên đội diệt gần 400 tên địch; phá hủy 6 xe M113, 12 súng 12,7 ly và 2 pháo 40 ly; phá hủy nặng căn cứ hậu cần ở Tây-Bắc Xvây-riêng, nhiều trận địa pháo trên cảng Công Pông Xom, diệt nhiều cụm hỏa lực địch trên đảo Cô Công tạo điều kiện cho bộ binh, hải quân ta diệt địch được thuận lợi, ít bị thương vong, làm chủ chiến trường, thu nhiều vũ khí đạn dược. Riêng tôi đã đánh chìm và làm hỏng nặng 3 tầu trên sông Công Pông Chàm; phá hủy 5 xe vận tải, 2 trận địa pháo và diệt nhiều địch”.

Trận đầu ra quân ngày 6-5-1978, ông cùng đồng đội vượt qua nhiều khu vực hỏa lực phòng không, bắn ném vào đội hình địch, bẻ gãy cuộc càn quét của chúng ở vùng Tà-Nốt Xa Mát (Tây Ninh); ngày 26-5-1978, cả sư đoàn địch ở khu vực Prây Viêng định đánh sang biên giới ta, ông đã cùng biên đội xuất kích 3 lần, dũng cảm bay thấp, chọn mục tiêu chính xác, bắn ném bom chính xác vào các mục tiêu, diệt hàng trăm tên địch, phá hủy 6 xe M113, 12 súng 12,7 ly, 2 pháo 105 ly; ngày 3-1-1979, địch rút khỏi Prây Viêng về Niếc Lương chống cự, ông cùng biên đội bay thấp, bất ngờ bắn phá trúng trận địa pháo, bãi để xe của địch ở thị trấn Niếc Lương. Khi quay về thấy phà tàu địch chạy trên sông, ông đã đánh trúng 1 phà, 1 tàu.

“Gian nan nhất là mấy ngày đánh đảo Cô Công” – Đại tá Kháng kể lại: Hải quân đánh bộ chiến đấu mấy ngày liền nhưng không chiếm nổi, phải yêu cầu không quân chi viện. Từ Biên Hòa đến mục tiêu phải bay 2 tiếng đồng hồ, bắn ném xong phải bay về luôn vì sợ hết xăng, cái mũ bay nặng như chì. Khu vực này giáp Thái Lan, thấy rõ máy bay tiêm kích Thái Lan bay dọc biên giới, chỉ cần mình sơ ý lạng sang không phận là họ nổ súng. 3 ngày đêm liên tục bắn ném các mục tiêu trên đảo Cô Công, trận cuối khi hải quân đổ bộ, cấp trên còn lệnh cho F-5 bay trên đầu đội hình tàu chiến để khích lệ tinh thần bộ đội…tuy tầm hoạt động xa, thời tiết xấu, trên đảo có nhiều trận địa phòng không, tuy nhiên, ông vẫn cùng biên đội phá hủy 3 trận địa pháo, đánh chìm 1 tầu chiến, chi viện đắc lực cho hải quân ta chiếm đảo.

Kiên định với cách mạng

Chuyện của những phi công tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam 
Đại tá, phi công Nguyễn Văn Kháng tại quê nhà.

Năm 1993 theo yêu cầu nhiệm vụ, ông được trên phân công biệt phái sang Hàng không dân dụng công tác và được đề nghị nhận chức Giám đốc sân bay Nội Bài, tuy nhiên, ông xin sang Trung tâm Tìm kiếm cứu nạn Hàng không. 16 năm đau đáu với việc cứu hộ, cứu nạn - đào tạo cán bộ nhân viên hàng không, năm 2009 ông về nghỉ hưu với chức danh Phó Giám đốc Trung tâm.  

Bây giờ đã gần 70 tuổi, nhưng hằng ngày ông vẫn chạy xe máy cả chục km đến với các hội viên cựu chiến binh, cây hoa cảnh… và đôn đáo với việc xây dựng kênh mương nội đồng, đường đi lại trong xóm để chuẩn bị cho thành quả nông thôn mới của xã. Ngồi nói chuyện với tôi về những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, ông chợt buồn: “Số 2 đầu tiên của tôi là phi công Lâm Văn Chí, sinh năm 1947 ở Phước Hải, Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu. Hồi học bên Liên Xô (trước đây), giảng viên đã định cắt bay nhưng Chí cương quyết rằng, quê đồng chí ấy ở trong miền Nam, nhà đồng chí bị giặc giết chết hết chỉ còn 2 bố con, nên đề nghị cấp trên cho tiếp tục học bay để về chiến đấu thống nhất đất nước, tìm mộ chí người thân.

Ông Kháng kể: “Trong trận đánh vào đội hình quân PolPot xâm lược ngày 11-8-1978 ở Xa Mát (Tây Ninh), chúng tôi lao xuống cắt bom, khi vòng lên tôi gọi mãi không thấy Chí trả lời. Về đến sân bay vẫn gọi và thấy im như tờ. Mấy hôm sau, anh em bộ binh mới tìm thấy máy bay bị súng phòng không của địch bắn, Chí  vẫn ngồi trên ghế lái. Hôm truy điệu Chí, đơn vị không cho tôi lên dự vì 2 chúng tôi đi đâu cũng có nhau”.

Chiều mùa đông Thái Bình, khói sương bảng lảng và lạnh như cắt. Cùng chúng tôi đi trên cánh đồng quê, phi công Nguyễn Văn Kháng cất tiếng gọi: “Số 2 ơi! Số 2 đâu rồi? Chí ơi Chí? Chí đâu rồi?”. Tiếng gọi lăn dài như buổi chiều 40 năm trước, Tây Nam…

 

          MAI THANH HẢI-NGÔ TIẾN MẠNH

 

Ý kiến bạn đọc

code

Có thể bạn quan tâm

Tin khác

Đọc báo in

Thời tiết

loading...

Tỉ giá

Liên kết website