7 giờ:24 phút Chủ nhật, ngày 29 tháng 1 , 2017

Nhớ về trại viết không quân năm ấy

Tốt nghiệp Trường Sĩ quan Không quân, với “gia tài” vài truyện ngắn, bút ký và thơ in trên tờ Tạp chí Văn nghệ Phú Khánh, sau dịp Tết Nguyên đán Giáp Tý (1984), từ Nha Trang, tôi được Quân chủng gọi ra Hà Nội dự Trại viết, chuẩn bị cho kỷ niệm 20 năm ngày Không quân nhân dân Việt Nam đánh thắng trận đầu (3-4-1965).

Nhớ về trại viết không quân năm ấy
Từ phải sang, Nhà văn Kim Lân (đội mũ), từ trái sang: Nguyễn Minh Ngọc,
Nhà văn Thao Trường, cùng các trại viên tại Hồ cá Trí Nguyên, Nha Trang (1984).

Thời bao cấp khốn khó nhưng lính không quân mỗi khi ra Bắc, vào Nam thường được vi vu cưỡi AN-26, loại máy bay vận tải quân sự mà nhiều người quen gọi đùa là “tàu chợ” nhà giời. Về đến Quân chủng, chửa thấy “lều trại” đâu, các trại viên được dẫn vào khu “chiêu đãi sở” nằm cạnh mấy ao hồ, cỏ tràn ra cả lối đi. Cứ hai người một phòng, đêm đến tha hồ nghe ếch nhái ca cẩm. Mấy dãy nhà cấp 4 tuềnh toàng, vách ngăn bởi những tấm cót mỏng, phòng nhỏ chỉ vừa đủ cho cặp giường đơn, ở giữa kê cái bàn vuông mặt đá cáu bẩn hệt như bàn trong các cửa hàng giải khát thời chiến tranh. Đây là trạm khách của Quân chủng, dành cho người chờ đi tàu bay quân sự, thảng hoặc có cả những cặp vợ chồng trẻ mượn phòng tá túc. Trạm khách nằm sâu trong ngõ nhỏ nếu tính từ đường “Chiến thắng B52” rẽ vào, trước đây nó là con đường Tầu Bay lầm bụi. Ngó khung cảnh chung quanh rồi nhìn người ngợm rất chi là “bô-nhếch”… mà ngao ngán. Cảm nhận đầu tiên khiến cho sự hăm hở của các trại viên bị tụt mất phân nửa.

Có điều, ngay từ thập niên 60 (thế kỷ XX) trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt vậy mà Quân chủng khi ấy đã phát hiện được khá nhiều cây bút trẻ đang công tác dưới các đơn vị cơ sở, gom về lập “Tổ gương” chuyên viết gương người tốt việc tốt. Từ cái “bệ phóng” này, một loạt các nhà văn tài danh xuất hiện trên văn đàn Việt, như: Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ, Thao Trường (Nguyễn Khắc Trường), Dương Duy Ngữ, Hoàng Hữu Các…

Ổn định nơi ăn, chốn ở xong, một buổi sáng, các trại viên được gọi vào Cục chính trị Quân chủng dự khai mạc. Đến nơi mới biết đây là trại viết do Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Quân chủng tổ chức. Hèn nào, vừa bước vào Hội trường, tôi đã thấy lừng lững ông Nguyễn Đình Thi, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, cùng những “cây đa, cây đề” như: Hữu Thỉnh, Kim Lân, Bùi Hiển, Thao Trường, Nguyễn Trí Huân, Ma Văn Kháng, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Ninh Hồ, Vương Trí Nhàn, Vũ Quần Phương, Nguyễn Thị Ngọc Tú… Đọc tác phẩm của họ, giờ mới được diện kiến các tác giả, trong lòng gã trung úy là tôi ắp đầy sự ngưỡng mộ. Tôi coi đây là kỷ niệm và chút vinh hạnh đầu đời văn của mình. Đặc biệt là cụ Kim Lân, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn (nay là thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh) tác giả của những truyện ngắn lừng danh như: “Làng”, “Vợ nhặt”… mà nhà văn Nguyễn Khải từng nói là “thần mượn tay người viết”. Vừa gặp ông, tôi mê liền.

Về dự có chừng trên dưới 20 trại viên mới toe, không kể các anh ở Ban văn học như: Hà Bình Nhưỡng, Trần Vinh Khâm, Trần Hợi, chạy qua chạy lại. Điểm mặt thấy có hai giáo viên văn, một phi công trực thăng, còn lại là các sĩ quan, thợ máy, nhân viên kỹ thuật, lính thông tin, khí tượng… Trong ba gương mặt nữ hiếm hoi, có hai người thuộc biên chế của trường Trung cao Không quân (sau là Học viện Không quân), đó là Nguyễn Thị Minh Huệ, giáo viên tiếng Nga và Chu Minh Phương, thủ thư (ái nữ của tướng Chu Duy Kính); Nguyễn Ngọc Huyền, chiến sĩ thông tin. Trẻ nhất ở trại là chú em Hà Kim Hợp, mới vài tuổi quân.

Ngày ấy, ngoài sự nhiệt tình hăm hở của những người lần đầu “ra biển lớn”, quẫy đạp ùm ùm, hầu như chưa ai có chút vốn liếng hay kinh nghiệm viết lách gì. Mỗi người được phát vài tệp giấy với cây viết bic, đơn giản vậy thôi. Chưa dám nghĩ đến việc sắm cho mình cái máy đánh chữ. Đành cặm cụi thức đêm thức hôm, nằm bò ra giường mà “cày, ủi” vậy. Chết nỗi, thời gian này, có một lớp trung cấp quân nhu với khoảng 30 nữ vừa tốt nghiệp cũng đổ bộ về ở trạm khách chờ nhận công tác. Người đông, sinh hoạt nhốn nháo. Nhà cửa, phòng ốc nhiều chỗ cứ thông thống, kể cả nhà tắm. Báo hại cho các trại viên nam “quay” được nhiều cảnh chị em tắm, tha hồ mà “bổ túc” mắt...

Tếu táo vậy nhưng chỉ sau hơn một tuần, lác đác đã có người nộp quyển. Hội Nhà văn phân công các nhà văn: Kim Lân, Thao Trường, Trần Ninh Hồ đọc bản thảo của các trại viên. Tôi ở cùng nhóm với Huệ, Phương và Lưu Đức Hài được cụ Kim Lân đọc và nhận xét bản thảo. Một buổi sáng, chúng tôi đạp xe tìm đến nhà ông ở sâu trong ngõ Hạ Hồi, cách hồ Thiền Quang không xa. Nom dáng vẻ khắc khổ, nghiêm nghị của nhà văn, nhất là khi ông vừa tiễn chân mấy vị ở Viện văn học, thoạt đầu ai nấy có vẻ e ngại. Nhưng thấy ông chân tình, cởi mở, lại rất hóm, chúng tôi gọi đùa ông là “Lão Hạc”. Cuộc trò chuyện của ông dường như chả dính gì đến văn chương cả, cứ nhẹ nhàng, rủ rỉ. Tôi biết trong 7 người con của nhà văn Kim Lân, có 4 họa sĩ: Nguyễn Thị Hiền, Thành Chương, Nguyễn Từ Ninh, Nguyễn Việt Tuấn… Mấy anh em trại viên ngồi bệt xuống sàn nhà. Nhà văn vừa gại đóm vào chiếc điếu bát sau mồi thuốc lào lắc lứ, vừa gật gù góp ý. Bản thảo truyện ngắn “Lạ lùng” của tôi, không thấy cụ gạch hay xóa gì sất, mà chỉ thấy những dấu hỏi đỏ chót bên lề. Thú thực, lúc ấy tôi thấy hoang mang quá; trong đầu chợt nẩy lên câu Kiều: “Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh”. Truyện ấy bị đổ, tôi phải viết cái khác để nộp. Về sau, khi đã dấn sâu vào văn nghiệp, đọc lại, tôi mới thấm và càng khâm phục con mắt tinh tường của một nhà văn bậc thầy!

Nhằm giúp các cây bút trẻ hoàn thiện tác phẩm, Quân chủng quyết định cho cả trại bay AN-26 vào Nha Trang, nghỉ tại Đoàn an dưỡng 20. Hai nhà văn Kim Lân và Thao Trường cùng theo sát các trại viên. Vốn rất kiệm lời, trong những ngày bám trại, bậc thầy truyện ngắn Việt Nam, thủng thẳng: Các anh chị thấy gì tâm đắc cứ viết. Chưa in được thì để đấy, rồi sẽ có lúc.

Kết thúc trại, có 15 truyện ngắn được chọn in trong tập “Đôi cánh tuổi 20”. Về sau đọc lại thấy nó còn ngô nghê, ngờ ngệch. Nhưng giả sử không có cái thuở ban đầu vụng dại ấy, thì làm sao có được ngày hôm nay? Sách ra, được nhà phê bình Ngô Vĩnh Bình giới thiệu trong bài điểm sách trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhờ một câu nhận xét: “Văn anh rất trong sáng!” của cụ Kim Lân khi kết thúc trại mà tôi đủ can đảm dấn bước. Một lần ra Hà Nội, tôi rủ Huệ đến thăm thầy Kim Lân. Mấy bác cháu trò chuyện khá lâu. Ông vui lắm.

Thoắt đà 32 năm. Mấy chục anh chị em trại viên ngày ấy giờ tản mát mỗi người một nẻo. Trong số đó có hai người cùng một đơn vị hồi cuối năm 1975 (Tiểu đoàn kho 35, Cục Kỹ thuật), là tác giả bài viết này và Thiếu tướng Nguyễn Phương Diện (Cục Tuyên huấn). Còn phi công trực thăng Đinh Như Thiết nhiều năm nay là một doanh nhân thành đạt ở Rumani và nghe đâu anh có vài tựa sách được xuất bản. Số còn lại, hầu như rơi rụng hết, không ai dính nghiệp văn. Chớp mắt, nhà văn Kim Lân đà khuất núi chẵn 10 năm. Và mới đây thôi, tên ông được đặt cho một đường phố ở Bắc Ninh. Ôi, thời gian!

Đại tá, Nhà văn NGUYỄN MINH NGỌC

 

Ý kiến bạn đọc

code

Có thể bạn quan tâm

Tin khác

Đọc báo in

Thời tiết

loading...

Tỉ giá

Liên kết website