10 giờ:49 phút Thứ sáu, ngày 8 tháng 4 , 2016

Bộ đội Phòng không-Không quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí và sáng tạo, sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vĩ đại, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xây dựng CNXH. Thắng lợi đó có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng phòng không cả nước nói chung, Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) nói riêng.

 Tháng 7 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) họp Hội nghị lần thứ 21 đề ra đường lối hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nghị quyết Hội nghị khẳng định thắng lợi to lớn trong 18 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đến việc ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; chỉ ra thời cơ chiến lược mới, xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong vài ba năm trước mắt; hạ quyết tâm lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nỗ lực cao nhất trong giai đoạn cuối cùng để giành thắng lợi hoàn toàn cho Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chấp hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 3 năm 1974, Quân ủy Trung ương họp tổng kết tình hình năm 1973 và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho các năm sau, xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của các lực lượng vũ trang là nắm vững thời cơ chiến lược, tích cực chuẩn bị mọi mặt theo yêu cầu tác chiến quy mô lớn, kiện toàn khối chủ lực cơ động dự bị chiến lược, tăng cường sức người, sức của ra tiền tuyến, chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đánh lớn khi có thời cơ.
Bộ đội Phòng không-Không quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975

Bộ Tư lệnh PK-KQ giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong Quân chủng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.  (Ảnh Tư liệu)

Quán triệt và chấp hành các chủ trương, quyết tâm chiến lược của Đảng và Quân ủy Trung ương, đồng thời với việc tổ chức lực lượng SSCĐ bảo vệ miền Bắc, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Quân chủng khẩn trương chuẩn bị chiến đấu, đẩy mạnh việc xây dựng các lực  lượng phòng không, không quân cho chiến trường miền Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế. Bộ Tư lệnh Quân chủng đã đề đạt quyết tâm lên Bộ Quốc phòng về sử dụng lực lượng, bố trí đội hình tác chiến phòng không trên cả 2 miền Nam, Bắc. Được sự nhất trí của Bộ, Quân chủng đã khẩn trương tổ chức, chuẩn bị lực lượng, chuyển giao hơn 50% số trung đoàn pháo cao xạ cho các chiến trường và xây dựng lực lượng phòng không cho các quân khu, quân đoàn. Đến đầu năm 1974, hầu hết các sư đoàn bộ binh đều có 1 tiểu đoàn pháo cao xạ cơ giới, các quân đoàn đều được biên chế 1 sư đoàn hoặc 1 lữ đoàn phòng không, trên các chiến trường đều phát triển lực lượng bắn máy bay bằng súng bộ binh, súng máy cao xạ...

Đồng thời, với việc nhanh chóng phát triển lực lượng, trong 2 năm 1973 - 1974, lực lượng phòng không thường xuyên hiệp đồng chặt chẽ, đồng thời thực hiện cả 3 nhiệm vụ tác chiến chiến lược là bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ giao thông chiến lược và tác chiến trong đội hình binh chủng hợp thành. Các lực lượng phòng không miền Nam đã kịp thời tập trung lực lượng đánh địch từng đợt, từng trận tập kích đường không của địch, bảo vệ vùng giải phóng và bảo vệ giao thông vận tải chiến lược quan trọng. Về tác chiến phòng không trong đội hình binh chủng hợp thành, các tiểu đoàn, trung đoàn pháo cao xạ, đại đội tên lửa A-72 đã yểm hộ cho các sư đoàn bộ binh bao vây, tiến công địch trên hướng chủ yếu, triệt địch tiếp tế đường không, tiêu diệt nhiều máy bay địch, buộc chúng phải rút bỏ căn cứ. Theo tài liệu thu được của địch, từ ngày 28/01/1973 đến ngày 31/10/1974, đã có 124 máy bay các loại của không quân Ngụy bị bắn rơi, riêng tên lửa A-72 bắn rơi 25 chiếc.

Trong Chiến dịch Tây Nguyên, bộ đội phòng không được giao nhiệm vụ yểm hộ cho bộ đội binh chủng hợp thành tiến công phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch ở Quân khu 2 Ngụy, làm thay đổi cục diện chiến trường, nhằm tạo ra thời cơ chiến lược mới. Sư đoàn phòng không 377 được lệnh rời địa bàn Tây Quảng Bình, hành quân thọc sâu vào phía Nam, tham gia Chiến dịch Tây Nguyên. Đây là đơn vị phòng không vinh dự được tham gia sớm nhất vào Cuộc Tổng tiến công năm 1975. Trong chiến dịch này, các lực lượng phòng không, nòng cốt là Sư đoàn phòng không 377 đã bắn rơi 51 máy bay địch, trong đó có 19 chiếc rơi tại chỗ.

Trong Chiến dịch Trị - Thiên - Huế và Chiến dịch Đà Nẵng, ta đã hình thành thế trận phòng không ba thứ quân, nhất là ở Trị - Thiên. Lực lượng phòng không chủ lực tương đối mạnh làm nhiệm vụ yểm hộ các hướng tiến công chủ yếu của bộ đội hợp thành. Lực lượng phòng không tại chỗ của các địa phương kết hợp với các đội vũ trang luồn sâu vào sau lưng địch, tạo nên lưới lửa phòng không rộng khắp, hoàn chỉnh cả phía trước và phía sau. Trong 2 chiến dịch này, các lực lượng phòng không của ta đã đánh 50 trận trên không, bắn rơi 14 máy bay địch, có 5 chiếc rơi tại chỗ và đánh 136 trận với địch mặt đất, mặt nước, diệt 30 lô cốt, 2 xe bọc thép, bắn chìm 2 tàu chiến.

Từ sau thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, ta đã khẩn trương cơ động lực lượng phòng không của các quân đoàn và lực lượng dự bị chiến lược của Quân chủng PK-KQ từ nhiều nơi vào mặt trận Sài Gòn - Gia Định. Cho đến ngày 25/4/1975, các lực lượng phòng không và không quân tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh đã tập kết và triển khai xong toàn bộ đội hình. Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng và cơ quan tham mưu phòng không của Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo, điều hành các lực lượng phòng không thực hiện kế hoạch tiến vào Sài Gòn.

Lực lượng phòng không trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là lực lượng phòng không tổng hợp của cả nước được huy động tới mức cao nhất, bao gồm các binh chủng pháo cao xạ, tên lửa phòng không, không quân chiến đấu, không quân vận tải, ra đa. Cụ thể như: Sư đoàn 673 hành quân từ Đà Nẵng vào Long Khánh; Sư đoàn 367 hành quân thần tốc từ Ninh Bình vào Đồng Xoài; Sư đoàn 377 triển khai trên hướng Tây - Bắc Sài Gòn; Sư đoàn 365 bảo vệ các thành phố, thị xã cực Nam Trung Bộ; Sư đoàn 375 bảo vệ Thành phố Đà Nẵng và Sân bay Phú Bài; Trung đoàn tên lửa 263 hành quân từ Tà Cơn, Quảng Trị vào triển khai chiến đấu ở Phước Bình; Tiểu đoàn 8 ra đa triển khai ở Phước Long... Bộ đội pháo cao xạ, súng máy cao xạ và tên lửa tầm thấp A-72 đã thường xuyên bám sát, kịp thời yểm hộ chi viện có hiệu quả cho bộ đội binh chủng hợp thành, đồng thời phát huy tốt tác dụng trong nhiệm vụ chủ yếu là đánh địch trên không, tính từ ngày 25 đến 30/4/1975 đã đánh 225 trận, bắn rơi 43 máy bay địch, có 14 chiếc rơi tại chỗ.

Đối với không quân, từ sau ngày giải phóng Tây Nguyên - Đà Nẵng, ta đã kịp thời tiếp quản, khôi phục hoạt động các sân bay, lấy máy bay địch để lại, tổ chức sửa chữa, huấn luyện chuyển loại phi công, tiến hành công tác đảm bảo kỹ thuật để nhanh chóng sử dụng chiến đấu khi có lệnh. Giữa lúc tình hình đang diễn ra sôi động, khẩn trương, thì ngày 8/4/1975, phi công Nguyễn Thành Trung (người của ta hoạt động bí mật trong lực lượng Không quân Ngụy) đã lái chiếc máy bay F-5E ném bom xuống Dinh Độc Lập, sự kiện này đã làm cho quân Ngụy Sài Gòn càng thêm hoảng loạn.

Đặc biệt, quán triệt sâu sắc quyết tâm của Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh về việc sử dụng không quân trong đòn đánh chiến lược cuối cùng, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng đã khẩn trương chỉ đạo, tổ chức có hiệu quả việc sử dụng máy bay địch đánh địch. Và chỉ sau một thời gian ngắn huấn luyện chuyển loại, đến ngày 27/4/1975, phi công và thợ máy đã làm chủ được máy bay A-37. 9 giờ 30 phút ngày 28/4/1975, Phi đội Quyết thắng chuyển từ sân bay Phù Cát vào sân bay Thành Sơn làm công tác chuẩn bị chiến đấu. 16 giờ 40 phút, ngày 28/4/1975, Phi đội Quyết thắng sử dụng 5 chiếc máy bay A-37 ném 18 quả bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất. 18 giờ 15 phút, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, toàn Phi đội hạ cánh an toàn xuống sân bay Thành Sơn. Đây là trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, phá hủy 24 máy bay, tiêu diệt hàng trăm sĩ quan và binh lính địch. Trận đánh bất ngờ, táo bạo của không quân ta làm cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn hoang mang, suy sụp về tinh thần, thúc đẩy nhanh quá trình tan rã và sụp đổ hoàn toàn của chúng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 của quân và dân ta mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng. Vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến đấu anh dũng, các lực lượng phòng không, không quân, nòng cốt là Quân chủng PK-KQ đã nêu cao trách nhiệm chính trị và quyết tâm chiến đấu, tích cực chủ động đánh địch trên không, mặt đất, bắn rơi 253 máy bay các loại, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, chi viện kịp thời và có hiệu quả cho bộ đội binh chủng hợp thành trong mọi hình thức chiến thuật, đặc biệt là trong các trận đánh then chốt, quyết định. Các lực lượng pháo phòng không, tên lửa, không quân, ra đa chiến đấu trong đội hình quân binh chủng hợp thành với quy mô lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã tạo thành sức mạnh tổng hợp, áp đảo không quân địch, khẳng định một lần nữa nghệ thuật tác chiến chiến dịch trong chiến tranh hiện đại của quân đội ta.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là về tác chiến của không quân trong chiến dịch binh chủng hợp thành. Những kinh nghiệm đó đã và đang được Quân chủng PK-KQ, các địa phương, đơn vị tiếp tục vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh mới, phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

HOÀNG LÂU

 

Ý kiến bạn đọc

code

Có thể bạn quan tâm

Tin khác

Đọc báo in

Thời tiết

loading...

Tỉ giá

Liên kết website